Uninature PT - шаблон joomla Скрипты

Giới hạn quyền tác giả theo quy định của pháp luật Việt Nam

Tác giả: Dương Thị Cẩm Hằng - Đăng ngày: .

Trong xu thế phát triển của thế giới hiện nay, các tác phẩm văn học, nghệ thuật ngày càng phát huy được vai trò to lớn của mình trong việc đáp ứng đời sống tinh thần cho con người. Ngày nay, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học ngày càng có giá trị cao và có khả năng lan truyền một cách nhanh chóng, rộng rãi, trên phạm vi toàn cầu. Do đó, việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là một yêu cầu được đặt ra hết sức bức thiết. Tuy nhiên, bên cạnh đó, pháp luật cũng cần phải đảm bảo cho công chúng có khả năng đón nhận tác phẩm một cách hiệu quả nhất, thuận tiện nhất, tạo điều kiện để thúc đẩy, khuyến khích quá trình sáng tạo. Chính vì thế, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi năm 2009 đã đặt ra quy định về các trường hợp giới hạn quyền tác giả, để nhằm đảm bảo quyền lợi cho cả tác giả và các chủ thể khác có nhu cầu đón nhận tác phẩm.


Giới hạn quyền tác giả là những hạn chế về quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả hay còn được hiểu như là các ngoại lệ của quyền tác giả. Giới hạn quyền tác giả là quy định liên quan tới việc khai thác, sử dụng tác phẩm, cuộc biểu diễn, bảng ghi âm hình, chương trình sóng các trường hợp đặc biệt, cụ thể nhằm đáp ứng các nhu cầu chính đáng phục vụ công tác thông tin, nghiên cứu khoa học, giảng dạy và chính sách xã hội. Hình thức chủ yếu của những hạn chế này là các trường hợp sử dụng tự do các tác phẩm đã công bố, trong đó có trường hợp phải thanh toán tiền sử dụng, có trường hợp không phải thanh toán tiền sử dụng.
Ở nước ta, Luật sở hữu trí tuệ và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ xác định giới hạn cho quyền tác giả bằng việc quy định các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao và các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao. Giới hạn quyền tác giả trong những trường hợp này giúp cho công chúng có khả năng khai thác, sử dụng các tác phẩm văn học nghệ thuật và khoa học vào mục đích phi thương mại như: nghiên cứu khoa học, giảng dạy,... được dễ dàng hơn. Tuy nhiên bên cạnh quyền lợi này, tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm có nghĩa vụ không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi năm 2009 quy định về các trường hợp giới hạn quyền tác giả như sau:
Thứ nhất, các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao.
Theo quy định tại Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ, các trường hợp sử dụng dụng các phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:
- Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân (trừ tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính).
- Trích dẫn hợp lí tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình.
- Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại.
- Sao chép 1 bản tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu (trừ tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính).
- Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kì hình thức nào.
- Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy
- Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó.
- Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị.
- Nhập khẩu một bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.
Thứ hai, các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao.
Theo quy định tại Điều 26,Luật Sở hữu trí tuệ, các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:
- Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kì hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút hoặc thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng .
- Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kì hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ.
Kết luận
Có thể thấy, pháp luật hiện nay thừa nhận và bảo hộ cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả những quyền mang tính độc quyền. Tuy nhiên, tính độc quyền này của các chủ thê nói trên có thể làm ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận của cộng đồng đối với các sản phẩm sáng tạo, làm cản trở sự phát triển của xã hội. Do đó, việc ban hành các quy định pháp luật về các trường hợp hạn chế quyền tác giả là vô cùng cần thiết để nhằm đảm bảo lợi ích giữa chủ sở hữu, tác giả quyền sở hữu trí tuệ với lợi ích của cộng đồng. Đánh giá tổng quan, những quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam về các trường hợp hạn chế quyền tác giả hiện nay tương đối hoàn thiện, phù hợp với quy định trong các công ước quốc tế mà chúng ta là thành viên, góp phần thúc đẩy quá trình sáng tạo của tác giả và tiếp cận tác phẩm của công chúng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ ( Ts Lê Đình Nghị - Ts Vũ Thị Hải Yến chủ biên) - NXB Giáo dục.
2. Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ - NXB học viện tư pháp
3. Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ - TS Lê Nết
4. Bộ luật dân sự Việt Nam 2005
5. Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005, sđbs 2009
6. Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật
7. Các bài viết của TS Vũ Mạnh Chu được đăng tải trên website của Cục Bản quyền tác giả.