Uninature PT - шаблон joomla Скрипты

Phát triển bền vững - Quan điểm chỉ đạo xuyên suốt thời kỳ đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam

Tác giả: Th.S Nguyễn Thị Hà - Đăng ngày: .

            Phát triển bền vững được hình thành từ thực tiễn đời sống xã hội, có tính tất yếu, là mục tiêu cao đẹp của quá trình phát triển và là mối quan tâm trên phạm vi toàn cầu. Quan điểm phát triển bền vững trở thành chiến lược quan trọng, có tính sống còn trong yêu cầu phát triển xã hội, được Đảng cộng sản Việt Nam thể hiện nhất quán, xuyên suốt quá trình lãnh đạo đất nước trong thời kỳ đổi mới. Để thực hiện thành công mục tiêu phát triển trong chặng đường tiếp theo, trong thời gian tới còn nhiều vấn đề đặt ra cần được nhận thức rõ và kịp thời triển khai đồng bộ nhiều nhóm giải pháp giải quyết.

Từ khóa: Quan điểm Đảng Cộng sản, phát triển bền vững, đổi mới.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Năm 1987, trong báo cáo Brundland của Ủy ban Môi trường và Phát triển thế giới (WCED) phát triển bền vững được hiểu không chỉ là sự phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái. Khái niệm “phát triển bền vững” trở thành cơ sở để các quốc gia xây dựng quan điểm, định hướng, giải pháp tháo gỡ những khó khăn, bế tắc trong các vấn đề phát triển. Ở Việt Nam, khái niệm “phát triển bền vững” được triển khai nghiên cứu vào khoảng cuối thập kỷ 80 - đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Ngày nay, phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu chiến lược quan trọng, là một trong những nội dung cơ bản để thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng là mục tiêu quan trọng hàng đầu mà nền kinh tế Việt Nam hướng tới. Từ quan điểm nhất quán của Đảng về phát triển bền vững xuyên suốt thời kỳ đổi mới, bài viết đề cập một số nhiệm vụ và giải pháp cấp bách trước mắt, nhất là về vấn đề bảo vệ môi trường khi xem xét, phê duyệt các dự án trong thực hiện nhiệm vụ chiến lược giai đoạn 2015 – 2020. 

NỘI DUNG

1. Phát triển bền vững và quan điểm phát triển bền vững của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trong “Chiến lược bảo tồn thế giới” do Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên đề cập tới vào năm 1980, nội dung phát triển bền vững được nhấn mạnh là tính bền vững của sự phát triển sinh thái. Mục tiêu của phát triển bền vững nhằm đạt được bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật. Năm 1987, trong Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” (còn gọi là báo cáo Brundland ), "phát triển bền vững" được định nghĩa là “Sự phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”[13].

Tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển  năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững năm 2002 nội hàm của "Phát triển bền vững” là quá trình phát triển, vận hành có sự kết hợp chặt chẽ và hài hòa giữa 3 nội dung, gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên). Cho đến nay, quan niệm về phát triển bền vững có được sự thống nhất chung và là mục tiêu thiên niên kỷ trên bình diện quốc tế.

 Phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm, mục tiêu, chiến lược quan trọng của Đảng Cộng sản và chính sách của Nhà nước Việt Nam. Phát triển bền vững được định nghĩa có tính tổng quát, nêu bật những yêu cầu và mục tiêu trọng yếu nhất của phát triển bền vững, phù hợp với điều kiện và tình hình Việt Nam: "Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường” (mục 4, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường của Việt Nam)[8].

 Ngay từ cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, cùng với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước, Việt Nam đã tích cực tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, tìm tòi và vận dụng nhiều biện pháp quan trọng để phát triển các lĩnh vực khác nhau. Quan điểm phát triển bền vững của Việt Nam được xác định rõ nét trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991 – 2000 (được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam thông qua). Theo đó chủ trương: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường. Lấy phân phối theo lao động làm hình thức chính, khuyến khích làm giàu đi đôi với giảm số người nghèo, nâng cao phúc lợi xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, thực hiện nam nữ bình đẳng, tạo cơ hội cho mọi người đều được cống hiến và được hưởng thành quả của sự phát triển”; “Bảo vệ và sử dụng hợp lý các tài nguyên, cải thiện môi trường, ngăn chặn tình trạng hủy hoại đang diễn ra nghiêm trọng, chống xu hướng chạy theo tốc độ tăng trưởng và lợi ích trước mắt, gây hại cho môi trường”[2].

Đại hội VIII tiếp tục khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường”[2]. Phát triển bền vững được đề cập tới tại Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25-6-1998 Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, gắn với nội dung bảo vệ môi trường: “Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối. chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước”. Trong các văn kiện đại hội IX, X, XI, XII của Đảng, quan điểm phát triển bền vững được chú trọng và nhấn mạnh nhiều lần trên các góc độ tiếp cận.

Tại Đại hội IX Đảng ta đã đưa ra những quan điểm có tính chất định hướng cho sự phát triển bền vững đất nước. Đến Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát triển con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục…, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên; hoàn chỉnh luật pháp, tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên”[4].

 Quan điểm  phát triển  bền vững được xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”[3]. Đây lần đầu tiên ba yếu tố phát triển cơ bản, có mối liên hệ khăng khít với nhau: “tăng trưởng kinh tế - thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội - bảo vệ môi trường”, được Đảng ta đề cập một cách cụ thể, rõ ràng và trở thành quan điểm chính thức của Đảng. Có thể nói rằng, đây cũng là cơ sở lý luận để ngày 17-8-2004 Chính phủ ban hành “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” (còn gọi là chương trình nghị sự 21).

Đến Đại hội XI, quan điểm phát triển bền vững được thể hiện xuyên suốt trong văn kiện của Đảng, từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 cho đến Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Quan điểm đầu tiên trong năm quan điểm về phát triển nêu trong Chiến lược lần này chính là quan điểm ''Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược''  [6].  Bài học kinh nghiệm thứ hai được rút ra ở đây cũng đã chỉ rõ: ''Đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển” [5,]. Một lần nữa khẳng định nhận thức nhất quán của Đảng về phát triển bền vững, cũng như mối liên hệ mật thiết giữa phát triển nhanh và phát triển bền vững: “Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triiển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội” [3].  

Tại Đại hội XII,  phát triển bền vững được mở rộng, sâu sắc hơn, thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngay tiêu đề mục II của Báo cáo chính trị  đã khẳng định “Phát triển nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”[7]. Đảng ta đã xác định mục tiêu đến năm 2020 đảm bảo phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô: “bảo đảm sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững”[7]. Đây là phương hướng phát triển phù hợp với “Chương trình nghị sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc trong 15 năm tới”(2016 - 2030) được khóa họp Đại hội đồng Liên hợp quốc lần thứ 70 (ngày 25-9-2015) thông qua. Chương trình gồm có 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDG), 169 chỉ tiêu cụ thể với lộ trình thực hiện tới năm 2030. Điều này không những nói lên thái độ dứt khoát trong lựa chọn mô hình phát triển bền vững nền kinh tế - xã  hội của đất nước cho thập niên tới, mà còn cho thấy nhận thức của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tầm quan trọng của vấn đề với tư cách là quan điểm chỉ đạo quan trọng và nhất quán trong đường lối của Đảng.

 Với điểm xuất phát thấp, nguy cơ tụt hậu về kinh tế của Việt Nam so với các nước trong khu vực và thế giới rất lớn, vì thế, đòi hỏi bức thiết là phải rút ngắn khoảng cách, phải tăng trưởng nhanh. Mặt khác, mô hình chế độ xã hội với 8 đặc trưng, trong đó đặc trưng bao trùm là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh'' [1] đòi hỏi trong từng chặng, mỗi giai đoạn phát triển phải gắn kết chặt chẽ nội dung “phát triển nhanh” và  “phát triển bền vững”. Mô hình tăng trưởng “từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững”[3]; ''Đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng” [5].Việc xác định mô hình tăng trưởng theo hướng này vừa bao hàm cả chiều rộng và chiều sâu, tốc độ và chất lượng của mô hình tăng trưởng. Về phạm vi, mô hình này thể hiện sự gắn kết hài hoà giữa “nhanh” và “bền vững” trên nhiều lĩnh vực rộng lớn, đan xen nhau cả về kinh tế, chính tri, văn hoá, xã hội và an ninh - quốc phòng. Định hướng phát triển bền vững (gồm mục tiêu, nguyên tắc…) đã được Việt Nam lồng ghép trong Chiến lược phát triển Kinh tế - xã hội theo các thời kì, giai đoạn cụ thể. Đây vừa là mô hình tăng trưởng xuyên suốt  thời kỳ quá độ với nhiều cấp độ khác nhau, giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất  có cơ sở khoa học và thực tiễn, có tính kế thừa.

2. Thành tựu cơ bản Việt Nam đạt được giai đoạn 2001 – 2015 và một số nhiệm vụ và giải pháp để thực hiện thành công giai đoạn hai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2010 - 2020 theo định hướng phát triển bền vững

Xét về yếu tố nội sinh và yếu tố thời đại, Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện được mô hình phát triển nhanh và bền vững nhờ biết tận dụng lợi thế thời đại của những nước đi sau và phát huy tiềm năng nội lực. Thực tế khẳng định, sau hơn 25 năm đổi mới, Việt Nam triển khai tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền vững chưa lâu song đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực khác nhau và có ý nghĩa lịch sử. Kết quả đạt được giai đoạn trước tạo đà cho thực hiện mục tiêu phát triển ở những chặng đường tiếp theo.

Về phát triển kinh tế, so với kết quả thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 1991- 2000, giai đoạn 2001 - 20010 bình quân tốc độ tăng trưởng đạt khoảng 7,26% đưa đất  nước ta lọt vào nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao trên thế giới. Đến 2010 tổng lực kinh tế Việt Nam đã đạt 101,6 tỷ USD, bình quận GDP theo đầu người đạt gần 1.540  USD. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, một số cân đối lớn của nền kinh tế như ngân sách nhà nước, cán cân thanh toán tổng thể, nợ quốc gia và dự trữ ngoại tệ... cơ bản được đảm bảo. Vốn đầu tư toàn xã hội tăng cao, bằng khoảng 40,5 % GDP, năng lực nhiều ngành kinh tế tăng đáng kể. Cơ cấu kinh tế chuyển biến theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong cơ cấu GDP tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41,l% năm 2010; tỉ trọng nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 24,5% xuống còn khoảng 2,6% và tỉ trọng dịch vụ giữ ở mức 38,3%. Tỉ lệ lao động nông nghiệp giảm từ 65,l% năm  2000 xuống 57,1% năm 2005 và còn 48,2% năm 2010. Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới bị chao đảo và suy giảm mạnh do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 nền kinh tế Việt Nam vẫn trụ vững trước cơn bão “khủng hoảng tài chính thế giới”. Đến giai đoạn 2011 - 2015, trong bối cảnh nền kinh tế phải đối mặt với nhiều khó khăn và kinh tế thế giới thường xuyên xuất hiện nhiều nhân tố bất lợi song tốc độ tăng trưởng nước ta đạt khoảng 5,91%, điều đáng nói ở đây là từ năm 2013 tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Mặc dù tăng trưởng giai đoạn này thấp hơn so với giai đoạn 2006 – 2010 nhưng đây vẫn là mức tăng tương đối tốt. Tăng trưởng năm 2015 đạt 6,68%, vượt mục tiêu đề ra là 6,2% và là mức cao nhất trong cả giai đoạn 2011-2015; trong đó, công nghiệp và xây dựng với tốc độ tăng 9,64% là ngành đóng góp nhiều nhất vào tăng trưởng năm 2015. Bên cạnh đó, GDP bình quân đầu người cũng tăng hơn 40%, từ 1.532 USD/người năm 2011 lên 2.171 USD/người năm 2015, trong bối cảnh lạm phát được duy trì ở mức thấp đã góp phần nâng cao mức sống thực tế của người dân. Xác định mục tiêu đặt ra cho 5 năm tới (2016 – 2020) tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm đạt 6,7 - 7%/ năm. Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 đến 3.500 USD. Tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP trên 85%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm bằng khoảng 31% GDP. [9]

Về vấn đề xã hội và con người, điểm nổi bật trong thành tựu phát triển ở nước ta là phát triển kinh tế luôn gắn chặt với thành tựu về phát triển con người, tăng tr­ưởng kinh tế đã hướng vào giải quyết các vấn đề xã hội và con người. Trong tiến trình đổi mới, con người được đặt vào vị trí trung tâm, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Điều này thể hiện ở chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam không ngừng được nâng cao. Theo Báo cáo phát triển con người năm 2007 - 2008 của Liên Hợp Quốc, chỉ số HDI của Việt Nam ở hạng trung bình (đạt 0,733). Năm 2012, Việt Nam đứng thứ 127/187 so với năm 2006, đã tăng 4 bậc từ vị trí 108 lên vị trí 105 trong tổng số 177 nước được xếp hạng. HDI của Việt Nam đã tăng 41% trong vòng hai thập kỷ qua. Đến nay đã có 6/8 nhóm mục tiêu Thiên niên kỷ đã được hoàn thành trước thời hạn năm 2015, các mục tiêu còn lại đạt được những bước tiến khả quan. Đến năm 2008 nước ta đã hoàn thành hầu hết mục tiêu thiên niên kỷ, trong đó mục tiêu hàng đầu là chống đói nghèo được Việt Nam triển khai từ 1993 đã đạt được những thành tựu quan trọng về giảm nghèo và đến nay đang tập trung vào mục tiêu giảm nghèo bền vững. Ngay từ năm 2002, Việt Nam đã được Liên Hợp Quốc ghi nhận là quốc gia hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015. Tỷ lệ nghèo từ 58% (năm 1993) giảm xuống còn khoảng gần 10% (năm 2010) và 4,25% (năm 2015). Xác định mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo của cả nước xuống còn 4% vào năm 2020. Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần (năm 1999) còn 2 lần (năm 2008). Bên cạnh đó, môi trường xã hội được quan tâm và có bước được nâng lên: môi trường pháp lý đã tạo điệu kiện cho sản xuất, kinh doanh thông thoáng hơn. Phát triển toàn diện công nghiệp, xây dựng và nông - lâm - ngư nghiệp trên cơ sở “công nghiệp hóa sạch”. Phát triển kinh tế - xã hội hài hòa, bền vững giữa các vùng, đô thị và nông thôn. Gắn áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn trong công cuộc xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt, coi trọng vấn đề chất lượng hàng hóa, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm; bảo tồn và phát triển được các nguồn tài nguyên đất, nước, không khí và đa dạng sinh học. Vấn đề bảo vệ môi trường được các địa phương, các ngành và các tầng lớp nhân dân đồng thuận và cùng tham gia. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo tiếp tục thu được nhiều thành tựu mới. Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng cũng thu được những kết quả tích cực…. Đó là những tín hiệu lạc quan và đầy triển vọng về phát triển bền vững của nước ta[15] 

Tuy đạt được những kết quả đáng kể trên nhiều lĩnh vực  nhưng so với yêu cầu phát triển nhanh và bền vững vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém, như: Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; công tác quy hoạch và huy động, sử dụng các nguồn lực còn kém hiệu quả; tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, công nghệ thấp; năng suất lao động và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế chậm được cải thiện; vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố mất ổn định, các lĩnh vực văn hoá, xã hội có một số mặt yếu kém, chậm được khắc phục, nhất là  đạo đức và lối sống trong một số bộ phận xã hội xuống cấp, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội chưa vững chắc, chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân cư còn lớn, lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường….  Trong đó, vấn đề bảo vệ môi trường đang là những vấn đề “nóng” trở thành một trong những  mối quan tâm đặc biệt của xã hội, cần có những giải pháp tác động mạnh mẽ.

Những hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân (có cả yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan) như thiên tai, lũ lụt, biến đổi khí hậu, những vấn đề mới nảy sinh chưa có tiền lệ trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, tư duy phát triển kinh tế - xã hội chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của đất nước, để tồn tại quá lâu mô hình tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng,  quản lý nhà nước còn hạn chế, sức mạnh toàn dân tộc chưa được phát huy tốt nhất...  đã ảnh hưởng không nhỏ tới mục tiêu phát triển bền vững, Tại Đại hội Đảng lần thứ XII, Đảng ta đã đánh giá thẳng thắn thành công đạt được, chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân của hạn chế và xác định mục tiêu phát triển trong thời gian tới. Để hoàn thành mục tiêu đề ra, Đảng đã nêu ra nhiều  nhiệm vụ và giải pháp thực hiện, tuy nhiên, để đảm bảo phát triển nhanh và bền vững - trong đó phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt toàn bộ quá trình - theo chúng tôi, trong chặng đường sắp tới cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ và giải pháp sau:

Thứ nhất, Tiếp tục huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong, tranh thủ sự quan tâm ủng hộ và đầu tư bên ngoài, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế để bảo đảm tốc độ và chất lượng tăng trưởng.

Thứ hai, Cần chủ động xây dựng và thực hiện những chính sách hướng vào giải quyết các vấn đề xã hội, bảo đảm an sinh và đời sống của nhân dân ngày càng tốt hơn. Đẩy mạnh các hoạt động thiết thực nhằm phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh và tôn trọng phản biện xã hội trong các tầng lớp nhân dân tạo nền tảng để xây dựng một xã hội đồng thuận, cởi mở.

Thứ ba, trong quan hệ so sánh giữa các nguồn lực, nguồn lực con người là chìa khóa giải quyết bài toán phát triển kinh tế - xã hội, là biện pháp căn bản để phát triển bền vững. Vì vậy, Nhà nước cần có những biện pháp mạnh mẽ đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo,  phát triển nhanh khoa học, công nghệ làm động lực thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức. Xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao như một đầu tư mũi nhọn.

Thứ tư, thực hiện nghiêm túc chủ trương tăng trưởng kinh tế gắn với bảo vệ môi trường,  tăng cường công tác bảo vệ môi trường, hướng tới mô hình phát triển xanh. Khuyến khích nghiên cứu khoa học và áp dụng vào sản xuất các công nghệ không gây ô nhiễm môi trường. Bảo vệ môi trường sinh thái đòi hỏi thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó đặc biệt chú ý bảo đảm quy trình phê duyệt và giám sát việc thực hiện các dự án đầu tư. Cụ thể:

- Trong quá trình phê duyệt dự án đầu tư cần có sự khảo sát đánh giá chuyên sâu của chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau và phản biện xã hội rộng rãi của nhân dân nhằm đánh giá sự tác động của dự án đối với môi trường sinh thái và xã hội.

- Lựa chọn các nhà đầu tư cần quan tâm thẩm định phê duyệt công nghệ phòng ngừa Việt Nam biến thành khu rác thải công nghiệp.

- Giao trách nhiệm cá nhân từng địa phương trong công tác kiểm tra, giám sát các dự án đầu tư triển khai trên địa bàn. Tiến hành kiểm tra đột xuất một cách thường xuyên đối với các dự án của các đoàn thanh tra chuyên ngành, liên ngành, cảnh sát môi trường

- Xây dựng chế tài hình sự ỏ mức cao đối với các cá nhân có trách nhiệm trong việc thẩm định, phê duyệt, kiểm tra, giám sát các dự án và bảo vệ môi trường. Có cơ chế thưởng, phạt và bảo vệ quần chúng nhân dân nhằm phát huy có hiệu quả quyền dân chủ của nhân dân trong bảo vệ môi trường.

- Xây dựng chế tài theo hướng tăng nặng cho các dự án làm sai quy trình sản xuất gây ô nhiễm môi trường, xử phạt nặng bằng cách dừng các dự án, các nhà máy tái vi phạm gây ô nhiễm môi trường.

KẾT LUẬN

 Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã chứng minh khả năng phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế của một quốc gia, kể cả những nền kinh tế vốn rất nghèo tài nguyên thiên nhiên. Ở Việt Nam, phát triến nhanh và bền vững không chỉ là con đường để đảm bảo nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững trong thiên niên kỷ mới mà còn là mô hình tăng trưởng xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhiều cấp độ khác nhau. Phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu sống còn, là chiến lược quan trọng của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam.

Thực tế, trong công cuộc đổi mới, Việt Nam hội được các điều kiện thuận lợi khách quan và chủ quan, trong nước cũng như quốc tế đã đạt được những thành tựu không nhỏ trên cả ba mục tiêu cơ bản: tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Sau 25 năm, diện mạo đất nước đã có nhiều thay đổi, đời sống của nhân dân cơ bản được nâng  lên, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Thành tựu ấy có ý nghĩa lịch sử to lớn, cho thấy ý chí quyết tâm của cả dân tộc, tính khả thi trong quá trình thực hiện mục tiêu đã định đã tạo tiền đề quan trọng, tạo đà để phát triển nhanh và bền vững cho những chặng đường tiếp theo. Trong bối cảnh toàn cấu hóa, việc thực hiện 3 mục tiêu chiến lược của phát triển bền vững trở thành nhu cầu tất yếu của xã hội, để thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020: Phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và hệ thống chính trị, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, triển khai đồng bộ nhiều nhóm giải pháp, đặc biệt cần quan tâm đẩy mạnh triển khai một số giải pháp như đã đề xuất trên đây.

Trong suốt thời kỳ lãnh đạo đất nước từng bước đổi mới, Đảng ta đã  nhất quán nhận thức và dứt khoát lựa chọn mô hình tăng trưởng đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Định hướng phát triển bền vững đã được lồng ghép trong Chiến lược phát triển Kinh tế - xã hội theo các thời kì, qua các giai đoạn cụ thể tạo thành một chỉnh thể thống nhất  có cơ sở khoa học và thực tiễn, có tính kế thừa. Tin rằng, chúng ta sẽ hoàn thành mục tiêu Chiến lược giai đoạn 2015 – 2020 và đó là động lực để chúng ta thực hiện nhiệm vụ chiến lược giai đoạn tiếp theo.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.      ĐCSVN - Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb CTQG, H. 2015

2.      ĐCSVN - Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 47, Nxb CTQG, H. 2006

3.      ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001

4.      ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2007

5.      ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011.

6.      ĐCSVN - Văn kiện Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI,  H. 2013

7.      ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016

8.      Luật bảo vệ môi trường, Nxb Tư pháp - 2015

9.      Nguyễn Quang Thái và Ngô Thắng Lợi (2007), Phát triển bền vững ở Việt Nam: Thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội, 2007

10.  Tham luận tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG – 2011

11.  Trần Ngọc Ngoạn (2007), “Một số vấn đề lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế trong phát triển bền vững nông thôn”, Tạp chí Nghiên cứu Phát triển bền vững, N2-2007

12.  Vũ Văn Hiển (2014), Phát triển bền vững ở Việt Nam, Tạp chí cộng sản (Communist Review), số tháng 1-2014

13.  http://www.agenda21.monre.gov.vn/Default.aspx?tabid=231

14.  http://www.tapchicongsan.org.vn

15.  http://vea.gov.vn/vn

16.  http://www.vnep.org.vn/.