ĐẢNG XÂY DỰNG CÁC HÌNH THỨC MẶT TRẬN DÂN TỘC PHÙ HỢP, CHỚP THỜI CƠ VÀ KỊP THỜI ĐỀ RA KHẨU HIỆU ĐẤU TRANH THÍCH HỢP, ĐÁP ỨNG NGUYỆN VỌNG BỨC THIẾT CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
ĐẢNG XÂY DỰNG CÁC HÌNH THỨC MẶT TRẬN DÂN TỘC PHÙ HỢP, CHỚP THỜI CƠ VÀ KỊP THỜI ĐỀ RA KHẨU HIỆU ĐẤU TRANH THÍCH HỢP, ĐÁP ỨNG NGUYỆN VỌNG BỨC THIẾT CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
ThS. Lê Thị Thái
Ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định thành lập Hội Phản đế đồng minh. Tổ chức này đã tập hợp được đông đảo quần chúng, trước hết là công nông, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cao trào cách mạng 1930 - 1931. Hội Phản đế đồng minh ra đời đánh dấu sự trưởng thành về nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng trong quá trình xây dựng và tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất. Tiếp đó, Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương (3/1935) đã ra nghị quyết thành lập tổ chức Phản đế liên minh và thông qua điều lệ của tổ chức này. Điều lệ của Phản đế liên minh đã mở rộng và linh hoạt hơn: Hễ người nào, vô luận đàn ông, đàn bà, già trẻ, tôn giáo, xu hướng chính trị hoặc đoàn thể chỉ cần thừa nhận Nghị quyết, Điều lệ và thường xuyên nộp hội phí thì được thừa nhận là hội viên.
Trong những năm 1936 - 1939, nhằm thực hiện mục tiêu đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh; đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình, Đảng Cộng sản Đông Dương đề ra chủ trương lập Mặt trận rộng rãi. Tuy mang nhiều tên gọi khác nhau, như: Mặt trận Nhân dân, Mặt trận Dân chúng thống nhất phản đế, Mặt trận Dân tộc phản đế, Mặt trận Nhân dân phản đế, Mặt trận Thống nhất Đông Dương... nhưng tính chất, nội dung vẫn là Mặt trận Dân chủ. Đây cũng là thời kỳ Đảng liên minh với các đảng phái thuộc nhiều giai cấp, tầng lớp theo những xu hướng chính trị, xã hội khác nhau. Do vậy, đây là hình thức mặt trận rộng rãi, khắc phục được bệnh cô độc, hẹp hòi, giúp ảnh hưởng của Mặt trận Dân chủ lan tỏa sâu rộng trong dân chúng cả nước.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, tháng 10/1941, ngày 25/10/1941, Mặt trận Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ, nêu cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc. Tuyên ngôn của Mặt trận Việt Minh “chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn” [4, tr. 4611]; đồng thời, khẳng định: “Coi quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy, Việt Minh sẵn sàng giơ tay đón tiếp những cá nhân hay đoàn thể, không cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia, miễn thành thực muốn đánh đuổi Nhật, Pháp để dựng lên một nước Việt Nam tự do và độc lập” [4, tr. 470].
Chương trình của Mặt trận Việt Minh gồm 44 điểm, là một hệ thống các chính sách về chính trị, kinh tế, văn hóa - giáo dục, xã hội, ngoại giao; những chính sách cụ thể đối với các tầng lớp công nhân, nông dân, binh lính, trí thức, công chức, học sinh, phụ nữ, tư sản, địa chủ,…Tinh thần cơ bản của chương trình này là “cốt thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước: 1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; 2. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do” [4, tr. 470]. Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh sau đó được đúc kết thành 10 chính sách lớn được thực hiện ở khu giải phóng Việt Bắc và được Đại hội Quốc dân Tân Trào thông qua tháng 8/1945, trở thành chính sách cơ bản sau này của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Những chính sách của Việt Minh là cơ sở quan trọng để đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng dân tộc. Cùng với chủ trương đoàn kết, tập trung nhiệm vụ giải phóng dân tộc, phù hợp với khát vọng của toàn thể dân tộc, đi đôi với việc chăm lo củng cố khối liên minh công nông, Đảng rất coi trọng việc đoàn kết, tập hợp các lực lượng khác: thanh niên, phụ nữ, học sinh, trí thức, tiểu thương, tư sản, địa chủ… kịp thời đưa ra hình thức tổ chức thích hợp, đa dạng nhằm tập hợp đông đảo lực lượng nhân dân. Nhận thức đúng và đầy đủ về vị trí của các giai cấp và các tầng lớp trong quá trình xây dựng Mặt trận Việt Minh, từ cuối năm 1941 đến năm 1942, các hội Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Quân nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Tự vệ cứu quốc,... đã được thành lập. Các tổ chức phản đế đều được chuyển thành các tổ chức cứu quốc. Mặt trận Việt Minh phát triển mạnh mẽ ở nhiều vùng nông thôn và thị xã, không những có cơ sở rộng khắp ở trong nước mà còn có cơ sở trong Việt kiều ở nước ngoài. Những người Việt kiều yêu nước ở Vân Nam (Trung Quốc) thành lập Hội giải phóng Việt Nam. Cuối năm 1942, sau khi đã liên lạc với lực lượng cách mạng trong nước, Hội giải phóng Việt Nam được coi như một bộ phận của Mặt trận Việt Minh.
Sang năm 1943, trước sự chuyển biến mới về thời cuộc, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp ở Võng La, quyết định mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị đề ra chủ trương liên minh với tất cả các đảng phái, các nhóm yêu nước ở trong và ngoài chưa gia nhập Mặt trận Việt Minh, đẩy mạnh công tác vận động công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, phụ nữ, tư sản, địa chủ yêu nước, các dân tộc thiểu số, Hoa kiều, lập ra Hội Văn hóa cứu quốc ở các thành phố nhằm đoàn kết các nhà trí thức và các nhà văn hóa. Nhờ vậy, Đảng đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc trong cao trào kháng Nhật, cứu nước và trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.
Ba ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp, ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương đã ra Chỉ thị: Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Chỉ thị chủ trương mở rộng cơ sở của Mặt trận Việt Minh, nhằm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng nhân dân vào cao trào kháng Nhật, cứu nước. Đó chính là thực hiện chính sách đoàn kết, phân hóa hàng ngũ kẻ thù, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ. Một tháng sau khi Chỉ thị ra đời, ngày 12/4/1945, Mặt trận Việt Minh ra lời kêu gọi: Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị quan chức ái quốc Việt Nam và Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị huynh thứ ái quốc. Nội dung các lời kêu gọi ấy đã góp phần đẩy nhanh quá trình phân hóa và tranh thủ một bộ phận vào lúc cách mạng bùng nổ. Khẩu hiệu “Phá kho thóc giải quyết nạn đói” đã đáp ứng nguyện vọng khẩn thiết, cấp bách trước sự sinh tồn của đại đa số nhân dân, là một nghệ thuật phát động quần chúng, hình thức đấu tranh thích hợp nhất lúc bấy giờ để đưa hàng triệu quần chúng đi từ hình thức đấu tranh thấp đến hình thức đấu tranh cao, từ đấu tranh cho quyền lợi kinh tế hằng ngày đến giác ngộ chính trị. Vì thế, phong trào phá kho thóc, giải quyết nạn đói của quần chúng, không chỉ có ý nghĩa kinh tế trước mắt, mà còn có nội dung chính trị sâu sắc.
Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lực lượng cách mạng gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Trong đó, lượng chính trị là chủ yếu và đấu tranh chính trị là cơ bản làm nên thắng lợi. Trong đó, lực lượng chính trị bao gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân yêu nước, không phân biệt già - trẻ, gái - trai, giàu - nghèo, quý - tiện, dân tộc, tôn giáo, đảng phái. Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã một lần nữa khẳng định rõ điều này: “Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” [2, tr. 2] và “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa” [2, tr. 1-2].
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam. Toàn dân nổi dậy, cả nước đồng lòng đứng lên. Từ chiến khu về đồng bằng, từ nông thôn đến thành thị, rồi cả thành thị cùng nông thôn nhất tề nổi dậy giành chính quyền về tay nhân dân. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là minh chứng sinh động về sức mạnh đồng thuận của cả dân tộc Việt Nam. Thắng lợi đó đã khẳng định trong thực tế lòng tin tuyệt đối của quần chúng nhân dân vào đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám thành công là minh chứng sinh động về sức mạnh đồng thuận của cả dân tộc Việt Nam, khi được Đảng khơi dậy, tổ chức tập hợp với tinh thần tự lực, tự cường. Thắng lợi đó đã khẳng định trong thực tế lòng tin tuyệt đối của quần chúng nhân dân vào đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng đã xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc, nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức; trên cơ sở lợi ích, nhu cầu, nguyện vọng của quần chúng nhân dân để tổ chức, tập hợp họ vùng lên đấu tranh. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là minh chứng sinh động về sự chung sức, đồng lòng của cả dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011
[2]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011
[3]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6 Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011
[4]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011
[5]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011
[6]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011
Các tin khác
- THƯ CÁC MÁC GỬI CON GÁI - 16/10/2025 08:37
- ĐIỂM MỚI CỦA MỘT SỐ VĂN BẢN LUẬT CÓ HIỆU LỰC TỪ NGÀY 01/7/2025 - 03/08/2025 03:05
- MỘT SỐ THÁCH THỨC CUẢ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN MỚI - 19/07/2025 09:44
- MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC SỐ CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀ TĨNH - 12/06/2025 10:29
- Chuyển đổi số trong giáo dục Đại học - Những khó khăn và thách thức - 16/03/2025 07:35
