Tư tưởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" - một nội dung cơ bản trong các nguyên tắc xây dựng nhà nước của Hiến pháp Việt Nam năm 1946
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh một nhà nước mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân trước hết là một nhà nước thực sự đại biểu cho quyền lợi của nhân dân, thực sự do nhân dân lập ra, được nhân dân ủng hộ. Đồng thời, đó phải là một chính quyền nhà nước tập trung, có bộ máy hành chính mạnh mẽ, quản lý điều hành bằng pháp luật có hiệu lực, hiệu quả thực tế; đội ngũ cán bộ công chức am hiểu pháp luật, chuyên môn và có đạo đức phục vụ nhân dân.
Nội dung tư tưởng xây dựng nhà nước Dân chủ nhân dân ở Hồ Chí Minh là sản phẩm đặc thù phản ánh những yêu cầu có tính tất yếu từ hoàn cảnh lịch sử về sự ra đời và lớn mạnh của nhà nước dân chủ nhân dân. Không chỉ trên phương diện tổ chức xây dựng hệ thống chính quyền vững mạnh mà còn xác lập cơ sở pháp lý vững chắc cho tiến trình xây dựng chế độ dân chủ thực sự có khả năng đoàn kết toàn dân tộc.
Tư tưởng về tổ chức hệ thống chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân không thể phát huy tác dụng đầy đủ nếu tách rời với tư tưởng bảo đảm tự do dân chủ và tư tưởng về phát huy sức mạnh vĩ đại đoàn kết toàn dân. Trong tính chỉnh thể, tư tưởng "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" là một nội dung cấu thành của tư tưởng xây dựng nhà nước Việt Nam mới ở Hồ Chí Minh. Do đó, việc xác định nội dung tư tưởng trên, trước hết phải từ chính vị trí, vai trò của nó trong các nguyên tắc ở "Lời nói đầu" trong Hiến pháp Việt Nam năm 1946.
Từ việc khẳng định thành quả của cách mạng tháng Tám là "giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hòa". Hiến pháp Việt Nam năm 1946 đã xác lập chính thể nhà nước "là một nước Dân Chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn dân Việt Nam" đến việc ghi nhận "Đoàn kết toàn dân... đảm bảo các quyền tự do dân chủ; Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" là những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp Việt Nam.
Như vậy, chỉ riêng về mặt hình thức thể hiện đã thấy đây là sự diễn tả hết sức đặc sắc theo phong cách văn phong Hồ Chí Minh. Người ta không thấy chính thể nhà nước công - nông - binh, không thấy mô hình chính quyền chuyên chính vô sản mà thay vào đó là chính thể Dân chủ Cộng hòa với nguyên tắc hiến định "thực hiện chính quyền mạnh mẽ sáng suốt của nhân dân" [3, tr.7].
Nếu như trong Tuyên ngôn độc lập (2/9/1945) Hồ Chí Minh trích dẫn những tư tưởng bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 để tuyên bố về một nền độc lập của nước Việt Nam thì ở Hiến pháp năm 1946 các giá trị pháp lý dân chủ được Hồ Chí Minh thể hiện thành các nguyên lý pháp quyền về một nền dân chủ rộng rãi theo nguyên tắc: Đoàn kết toàn dân; Đảm bảo các quyền tự do dân chủ; Thực hiện chính quyền mạnh mẽ sáng suốt của nhân dân.
Về phương diện lý luận, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước. Nhà nước pháp quyền là giá trị phổ biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ. Ở đây, nhà nước pháp quyền được xác lập dựa trên những giá trị pháp lý bằng các nguyên tắc luật pháp cao nhất - nguyên tắc của Hiến pháp.Trong ý nghĩa này, nhà nước pháp quyền được nhìn nhận như một cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Ngoài các giá trị phổ biến, nhà nước pháp quyền còn bao hàm các giá trị đặc thù. Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi nhiều yếu tố như các điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hoá, tâm lý xã hội và môi trường địa lý của mỗi dân tộc.
Hiến pháp Việt Nam 1946 với việc ghi nhận: Đoàn kết toàn dân; đảm bảo các quyền tự do dân chủ; thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân, đã khẳng định những giá trị phổ biến đồng thời thể hiện những giá trị đặc thù của nhà nước pháp quyền dân chủ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Sự mạnh mẽ và sáng suốt trong phục vụ nhân dân của nhà nước chỉ có được nếu biết phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc và bảo đảm được các quyền tự do dân chủ cho nhân dân.
Với vị trí pháp lý cao nhất, nguyên tắc xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân đóng vai trò chỉ đạo và quyết định toàn bộ những công việc lập pháp, lập quy, hành pháp, tư pháp về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phải thống nhất tuân thủ các quy định đó.
Là nhà lập hiến, lập pháp, hành pháp hàng đầu của dân tộc trong thời đại mới, Hồ Chí Minh hơn ai hết hiểu rõ vị trí, vai trò của Hiến pháp với quá trình xây dựng một nhà nước dân chủ đầu tiên ở Việt Nam. Đúng như Mountesquieu trước đây đã viết: "Mỗi dân tộc đều tìm ra lý do của các kỷ cương trong dân tộc của mình. Và chỉ những người thông minh bẩm sinh, hiểu thấu hiến pháp nước nhà mới kiến nghị được những điều thay đổi. Đó là lẽ tự nhiên!" [6, tr.32].
Là một trong ba nguyên tắc tạo nên chỉnh thể các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của nhà nước, công tác xây dựng chính quyền của nhân dân chỉ thực sự mạnh mẽ và sáng suốt khi nhà nước được tổ chức trên nền tảng đoàn kết toàn dân cũng như việc nhà nước bằng hoạt động thực tiễn bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Trong mối quan hệ chỉnh thể của các nguyên tắc xây dựng Hiến pháp năm 1946 thì nguyên tắc về xây dựng chính quyền mạnh mẽ giữ vai trò là cơ sở để tổ chức bộ máy các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước qua đội ngũ cán bộ công chức Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy rằng: Xây dựng chính quyền nhà nước mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân trên nền tảng bảo đảm tự do, dân chủ và đoàn kết toàn dân là nguyên lý tổ chức nhà nước dân chủ ở Hiến pháp Việt Nam 1946, đồng thời là luận điểm cơ bản trong tư tưởng xây dựng nhà nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong việc tổ chức quyền lực nhà nước, Hồ Chí Minh rất coi trọng yếu tố đặc trưng nhất là sử dụng quyền lực nhà nước để phục vụ các mục tiêu chính trị, kinh tế, xã hội và đối ngoại của nhà nước. Khẳng định tính pháp quyền của nhà nước dân chủ là thiết chế: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Lần đầu tiên trong lịch sử Nhà nước Việt Nam, Hiến pháp năm 1946 quy định khá rõ các quyền tự do, dân chủ của công dân với nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Song song với việc chú trọng đến chế định công dân, Hiến pháp còn thiết chế nên bộ máy nhà nước dân chủ nhân dân theo cách độc đáo của Việt Nam, trong đó nhân dân thực sự làm chủ quyền lực nhà nước thông qua Nghị viện và các Hội đồng nhân dân. Tại chương III Nghị viện nhân dân (Hiến pháp Việt Nam năm 1946), Điều thứ 22: "Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa"; Điều 23: "Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài". Đồng thời với chế định về các cơ quan quyền lực đại diện toàn dân, Hiến pháp 1946 có chế định về Chủ tịch nước và Chính phủ có quyền hành pháp và hành chính rất mạnh mẽ. Trong chương IV của Hiến pháp Việt Nam năm 1946 ghi rõ: Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính phủ gồm có Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch và Nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng. Có thể có Phó Thủ tướng, Chủ tịch nước trực tiếp chủ tọa Hội đồng Chính phủ. Quyền hạn, nhiệm vụ của Chủ tịch nước và Chính phủ được quy định trong Hiến pháp thể hiện quyền tập trung thống nhất, đặc biệt tập trung cao nhất vào Chủ tịch nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội trao trọng trách giữ cương vị nguyên thủ quốc gia trực tiếp điều hành Chính phủ.
Chế định về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn tập trung vào Chủ tịch nước, đồng thời là người trực tiếp đứng đầu điều hành Chính phủ là một đặc trưng tiêu biểu của tổ chức Nhà nước pháp quyền Việt Nam được thực hiện ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời. Chế định đó vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng (thông qua nguyên thủ quốc gia) vừa thực hiện quyền lực nhà nước tập trung thống nhất, phát huy được quyền hạn của Chính phủ trong việc tổ chức thực thi có hiệu quả các nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc.
Hiến pháp cũng thiết chế nên tổ chức cơ quan Tư pháp gồm Tòa án Tối cao, các Tòa phúc thẩm, các Tòa đệ nhị cấp và Sơ cấp với các nguyên tắc hoạt động cơ bản như: xét xử có phụ thẩm tham gia, "quốc dân thiểu số có thể dùng tiếng nói của mình trước Tòa án", nguyên tắc xét xử công khai; nguyên tắc "trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp".
Như vậy, Hiến pháp Việt Nam năm 1946 đã dựa trên các nguyên tắc xây dựng nhà nước, thể hiện trong Lời nói đầu của Hiến pháp để xác lập chế độ dân chủ nhân dân đầu tiên của nước Việt Nam với những quy định có giá trị pháp lý cao nhất và một bộ máy nhà nước mạnh mẽ và sáng suốt thực hiện các quyền tự do dân chủ và đoàn kết toàn dân để đưa dân tộc thực hiện sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc đến ngày thắng lợi.
Lịch sử ra đời của Nhà nước và Hiến pháp Việt Nam là lịch sử của những biến cố cách mạng vĩ đại, là những thời khắc mà sức mạnh nội lực của dân tộc trỗi dậy giành lấy quyền độc lập, quyền tự do và quyền hạnh phúc sau những đêm dài dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, phát xít cùng chế độ phong kiến suy tàn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã ghi vào Hiến pháp Nhà nước dân chủ của mình những quyền và nghĩa vụ pháp lý thiêng liêng của mỗi công dân là: "Bảo vệ Tổ quốc; tôn trọng Hiến pháp; tuân theo pháp luật". Còn nhà nước thì ghi lấy trách nhiệm: "Đoàn kết toàn dân; Bảo đảm các quyền tự do dân chủ; Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Nghiên cứu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân cho chúng ta thấy đây thực sự là một luận điểm sáng tạo, một cống hiến của Hồ Chí Minh vào lý luận xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Không chỉ bằng óc tổ chức thiên tài của Người mà đó là kết tinh của kinh nghiệm lịch sử cách mạng giải phóng các dân tộc mà Người đúc kết được và trân trọng nó vào một trong những nguyên tắc hiến định của bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ.
Phấn đấu xây dựng một nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch vững mạnh là sự tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của Đảng cùng toàn dân ta trong thế kỷ XXI.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Phạm Ngọc Anh - Bùi Đình Phong (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
- Võ Nguyên Giáp (chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2015), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Ngọc Minh (1988), Nghiên cứu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, Nxb Sự thật, Hà Nội.
- Montesquieu (2004), Bàn về tinh thần pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Tin mới
- Vai trò của đào tạo lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên - 18/06/2016 11:43
- Sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao nhân dân và giá trị đối với cách mạng Việt Nam - 17/05/2016 15:55
- Sự hy sinh thầm lặng của những người con Hà Tĩnh trong hai cuộc kháng chiến cứu nước - 24/04/2016 14:07
- Bối cảnh quốc tế tác động đến đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam 10 năm trước đổi mới (1975-1985) - 15/04/2016 12:22
- Những hình thức và yêu cầu sư phạm khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường Trung học phổ thông - 15/04/2016 12:13
Các tin khác
- Một vài cảm nhận về cách thức dạy và học ở môi trường Đại học - 23/03/2016 03:13
- Thời cơ và thách thức đối với thanh niên hiện nay - 11/03/2016 13:28
- Sự cần thiết của kỹ năng giao tiếp đối với sinh viên các ngành khoa học xã hội nhân văn - 20/02/2016 13:13
- Nhận thức về quyền con người trong thời kỳ cổ đại - 19/02/2016 13:01
- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng giai cấp công nhân - 19/02/2016 12:53